Sử Việt

Phan Thanh Giản – Nổi đau nghìn năm

Ông Phan Thanh Giản sinh năm 1796 tại làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) trong một gia đình quan chức nhỏ. Khi Phan Thanh Giản được 7 tuổi thì mẹ ông bịnh nặng và qua đời. Thuở nhỏ Ông là người có tư chất thông minh nhưng khi mẹ ông qua đời không bao lâu thì phụ thân của ông bị vu oan phải vào tù, vì vậy mà sự học tập của ông đều được sự giúp đở của các thầy đồ và các nhà hảo tâm trong làng. Tuổi thơ của ông đó là những tháng ngày đầy khổ nhọc.

Năm 1825, ông lên Gia Định tham gia kì thi Hương và đã đậu Cử-nhân. Năm 1826 ông ra Huế tham gia kì thi Hội và đã đỗ Tiến-Sĩ, đây là một vinh dự lớn lao cho ông mà cho cả sĩ phu miền Nam , vì ông là người miền Nam đỗ được Học vị này. Ông được vua phong Hàn lâm viện biện tu và ông lần lượt đảm trách các chưc vụ : Bố Chánh Quảng Nam, Đô sát viện ngử sử….

Với dã tâm đi xâm chiếm các nước làm thuộc địa, bọn thực dân Pháp đã dòm ngó nước ta, đây là một vị trí chiến lược quan trọng để thâu tóm toàn bộ bán đảo Đông Dương. Năm 1858 Pháp tấn công Đà Nẳng nhưng không thành, bọn thực dân liền quay vào Nam và chiếm Gia Định năm 1859 và ba tỉnh miền đông năm 1861, trước thế tấn công ồ ạt của giặc, triều đình nhà Nguyễn đã cử Phan Thanh Giản làm chánh sứ sang Pháp chuộc lại 3 tỉnh miền đông vừa mất, nhưng bọn thực dân nào chịu buông tha món mồi béo bở, dã tâm của chúng không dừng ở đó. Vì vậy mà cuộc thương thuyết không thành, ông và phái đoàn về nước năm 1864. Khi về nước Ông được Tự Đức Phong chức Kinh Lược ba tỉnh miền tây còn lại. Trước thế lực không cân xứng về lực lượng và qui mô, giữa một bên là vũ khí thô sơ, còn một bên là các vũ khí tối tân nhất thời đó thì dù Phan Thanh Giản mang cả một tấm lòng yêu nước thiết tha cũng không thể nào ngăn chặn được dã tâm thôn tính 3 tỉnh miền tây còn lại của bọn thực dân. Trong khi đó thì ngoài triều đình Huế chia làm hai phe chủ chiến và chủ hoà càng làm cho tình hình thêm rối ren.

Vĩnh Long thất thủ, rồi đến An Giang, Hà Tiên cũng rơi vào tay giặc. Trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ không tròn, ông đã tử tiết vào ngày 4 tháng 7 năm 1867, thọ 71 tuổi. Miền Nam thất thủ, đâu phải lổi ở Ông, dù ông đã hy sinh đến giây phút cuối cùng để bảo vệ lãnh thổ, để trốn tránh trách nhiệm Tự Đức đã trút toàn bộ tội lỗi cho ông và truyền lịnh đục tên ông ở bia Tiến Sĩ.

Ông ra đi đã để lại một niềm thương tiếc cho toàn thể nhân dân và thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm một bài thơ khóc cụ Phan:

Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây trắng cõi Ngao châu
Ba triều công cán vài hàng sớ
Sáu tỉnh cang thường một gánh thâu
Trạm Bắc ngày chiều, tin nhạn vắng
Thành Nam, đêm quạnh tiếng quyên sầu
Minh sinh chín chử lòng son tạc
Trời đất từ đây mặc gió thu

Cuộc đời của cụ Phan vì trung quân đành tử tiết. Tánh tình cương trực, khảng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm của cụ, không ai không kính phục.

Ngày nay tại quê hương ông, có một đền thờ rất lớn để tưởng nhớ đấn công ơn Ông. Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, trong khuôn viên thờ phụng của Tả Quân Lê Văn Duyệt có một bàn thờ rất trang nghiêm để tưởng nhớ đến Ông, “Một con người, vì nước quên thân”.

Show More
Back to top button

Adblock Detected

Please consider supporting us by disabling your ad blocker